Khúc "Quảng lăng":

"Kê Khang nầy khúc Quảng lăng
Một rằng Lưu thuỷ hai rằng Hành vân"
(câu 477 đến 478)

Trên đồ sứ Trung Hoa, ta thường thấy vẽ 7 cụ già ngồi bên rừng trúc. Kẻ đánh cờ, gảy đàn, thổi tiêu, người uống rượu ngâm thơ... trông vẻ tiêu diêu tự toại. Ðó là hình ảnh "Trúc lâm thất hiền" (bảy ông hiền trong rừng trúc) đời nhà Nguỵ (220- 264). Kê Khang là một trong 7 ông này.

Kê Khang vốn người có tính cao khiết, giàu lòng nghĩa hiệp và cùng là một người có biệt tài về các môn: cầm, kỳ, thi, họa. Một điều lạ hơn hết là mặc dầu có tài như vậy nhưng ông không học qua một ông thầy nào. Từ nhỏ đến lớn, ông có công tự học, rèn luyện mà nên. Ông vốn họ Khuê, người đất Thương Ngu, huyện Cối Kê (nay là huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang). Vì một sự thù oán do người gây nên, ông phải dời về ở ẩn huyện Hoa Dương, tỉnh An Huy. Gần chỗ ông ở có núi Kê (Kê Sơn) nên ông lấy tên Kê làm họ.

Kê Khang cũng như sáu người bạn kia đều thích an nhàn dật lạc, say mê đạo Lão, có người bảo: "Ba ngày không đọc "Ðạo đức kinh" thì miệng thấy hôi". Ông có ra làm quan đến chức Trung tán Ðại phu, nhưng luôn chê vua Thang, vua Võ, Khinh Văn Vương và Khổng Tử. Thơ ông có giọng triết lý:

"Mục tống phi hồng
Thủ huy ngũ huyền
Phủ ngưỡng tự đắc
Du tâm thái huyền"

Nghĩa:

"Mắt tiễn hồng bay
Tay gảy năm dây
Cúi ngửa tự đắc
U huyền thích thay"
(Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê)

Kê Khang làm quan một thời gian rồi từ quan, mai danh ẩn tích để hưởng thụ tiêu diêu lúc về già. Nhưng thảm thay, ông muốn tránh khỏi điều phiền luỵ ở cõi trần thì lại còn lận đận, khổ luỵ vì trần.

Từ quan, Kê Khang sống một cuộc đời ẩn dật, ngày ngày ngao du sơn thuỷ, hái thuốc, vui say với vần thơ điệu đàn. Bấy giờ nhà Nguỵ họ Tào suy vi, Tư Mã Chiêu có ý muốn lật đổ nên tìm mọi cách trừ khử những phe phái chống đối. Lúc ấy ở huyện Ðông Bình có người tên Lữ An vì ngưỡng mộ Kê Khang nên tìm đến ra mắt. Hai người kết bạn thâm giao. Không ngờ An có một người anh họ tên Lữ Tốn vốn bộ hạ thân tín của Tư Mã Chiêu, ỷ thế hoành hành, thấy vợ của Lữ An xinh đẹp, muốn chiếm đoạt nên bắt An hạ ngục.

Vì tình bạn, Kê Khang đứng ra minh oan. Nhưng rồi cũng bị bọn quyền thần bắt giam. Kê Khang vốn thuộc con rể trong thông thất nhà Nguỵ, nên họ muốn tìm cách trừ tuyệt. Chúng lại dựng chứng Kê Khang dám khinh chê vua Thang, vua Võ, Văn Vương, Khổng Tử là có ý phản loạn nên kết án tử hình.

Kê Khang vốn có tài đàn. Khúc "Quảng Lăng" do ông sáng tác, đánh lên nghe lưu loát, thánh thót như nước chảy (lưu thuỷ), mây bay (hành vân). "Lưu thuỷ" và "hành vân" là giải thích cách điệu lưu loát của khúc Quảng lăng. Cũng như tiếng đàn thánh thót của Kiều như nước chảy mây bay chẳng khác gì khúc "Quảng lăng" của Kê Khang, một tay đàn kỳ diệu.

Tình cảm của người gảy đàn cũng chuyển biến, biểu lộ bằng khúc đàn.


"Quá quan này khúc Chiêu Quân"


Qua "khúc Quảng Lăng" thánh thót, man mác như nước chảy mây bay,cuối cùng Kiều chuyển sang:

"Qúa quan nầy khúc Chiêu Quân
Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia"
(câu 479 đến 480)

Chiêu Quân tên Vương Tường, người đất Tỷ Quy thuộc Nam quận, được tiếng là "trầm ngư", một trong "Tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa. Nàng bị tuyển vào cung đời Hán Nguyên đế (48- 33 trước DL). Lúc bấy giờ vua Hán có đến 3.000 mỹ nữ trong cung nên không thể nào biết mặt hết được. Vua truyền tên thị vệ Mao Diên Thọ bảo hoạ sĩ vẽ hình tất cả những cung nữ, để vua xem và chọn làm hậu cung khi cần đến.

Mao Diên Thọ thừa nước đục thả câu để ăn hối lộ cung nữ. Nếu ai đút lót tiền thì truyền thần mặt xinh đẹp càng lộng lẫy để dâng lên nhà Vua. Cung nữ đành bằng lòng vì nghĩ rằng biết đâu nhờ đó mà được hưởng chút ơn mưa móc của quân vương, cho cuộc đời tài sắc của mình không phải quá phủ phàng ghẻ lạnh. Riêng Chiêu Quân đã có một sắc đẹp hơn các cung phi, lại có tính tự trọng, ghét bọn tham quan nên không chịu đút lót tiền mà còn xỉ vả nặng lời Mao Diên Thọ trước mặt đông người. Mao Diên Thọ xấu hổ càng căm giận, tìm cách ác độc trả thù. Do đó, khi nhận bức ảnh Chiêu Quân do hoạ sĩ trao cho, hắn lấy viết lén chấm dưới khoé mắt ảnh Chiêu Quân một chấm làm thành nốt ruồi.

Nhìn bức ảnh Chiêu Quân, Hán Nguyên đế rất hài lòng. Nhưng Mao Diên Thọ lại sàm tấu cho rằng Chiêu Quân tuy đẹp nhưng vì có nốt ruồi dưới khoé mắt mà sách tướng gọi là "thương phu trích lệ", đó là nốt ruồi sát chồng. Nhà Vua nghe lời nên chẳng nghĩ gì đến Chiêu Quân.

Chiến tranh giữa nhà Hán và Hung Nô.

Hán đại bại cầu hoà. Thiền Vu, chúa Hung Nô buộc Hán Nguyên đế phải cống phẩm vật và một cung phi tuyệt sắc mới chịu bãi binh. Trong tình thế nguy của đất nước, Nguyên Ðế phải đồng ý.

Mao Diên Thọ vừa ghét Chiêu Quân vừa sợ việc làm đòi ăn hối lộ và dối vua bị bại lộ, nên mưu với bọn gian thần tâu với nhà vua, đem Chiêu Quân đi cống. Nguyên Ðế bằng lòng.

Nhưng đến lúc Chiêu Quân vào triều bái yết nhà vua để theo sứ giả Hung Nô ra đi, thì nhà vua bấy giờ mới trông rõ mặt. Nốt ruồi đâu chẳng thấy mà chỉ là một tuyệt thế giai nhân, một trang quốc sắc thiên hương, còn hơn hình ảnh trong bức hoạ truyền thần qua nét bút kỹ xảo của một hoạ sĩ. Nhà vua vừa luyến tiếc, vừa tức giận, bấy giờ mới rõ mưu mô gian xảo, thâm độc của Diên Thọ, định đem trị tội. Thọ hay được, vượt biên trốn sang đầu hàng Hung Nô.

Sự thực chán chường rồi, không thể thay người khác được vì sứ giả Hung Nô đã nhận được mặt của Chiêu Quân.

Luyến tiếc người ngọc, xót thương phận liễu bồ bao năm giam mình trong cung lạnh, âm thầm với số kiếp phủ phàng, nhưng vì thế nước yếu hèn nên Hán Nguyên Ðế đành cắt đứt mối tình, trao người ngọc cho kẻ khác. Nhà vua chỉ còn bước xuống ngai vàng đến sân chầu, run run cầm lấy tay Chiêu Quân nghẹn ngào nói qua dòng nước mắt trong buổi chia ly:
- Ta có lỗi với nàng. Ta có tội với nàng! Vô tình ta trở thành con người tệ bạc.
Chiêu Quân cảm động, hai hột lệ đọng trên khoé mắt, ngậm ngùi:
- Thần thiếp đội ơn Bệ hạ. Hồng nhan bạc phận là một lẽ thường. Kiếp này duyên đã lỡ, kiếp khác nguyện đền bồi. Thần thiếp bao giờ cũng ghi lòng tạc dạ đối với tình nghĩa của đấng quân vương!

Thế là Chiêu Quân từ biệt nhà vua, xứ sở quê hương, lên xe theo đoàn quân hậu vệ Hung Nô, để vượt qua ải biên thuỳ Nhạn Môn sang Hồ. Nỗi thương nước nhớ nhà, nỗi giận kẻ gian thần, xót xa thân bồ liễu, có lúc trên đường dài thăm thẳm, bầu trời man mác khói toả mây trắng chập chùng, nàng truyền dừng xe, quay mặt hướng về cố quốc, gảy một khúc đàn ly biệt. Tiếng đàn tỳ bà não nuột ai oán. Những kẻ theo đưa ai cũng đau lòng sa nước mắt. Cây cỏ bên đường cũng héo tàn gục xuống mặt đất như để xớt thảm chia sầu.

Chiêu Quân chẳng những có sắc mà còn có tài đàn hay thơ giỏi. Nhìn một cánh chim lẻ bạn bạt gió về chiều, nàng xót xa cảm cho thân thế mình cất giọng ngâm:

Cánh én cô đơn đượm tủi sầu
Ngang trời gió cuốn bạt về đâu?
Quan san ngàn dặm vương thương nhớ
Hồ, Hán từ đây cách biệt nhau

Và:

Mây trắng trời trong gió ngạt ngào
Hồn hoa mờ mịt dưới trăng sao
Ðêm đêm thổn thức đêm đêm mộng
Có phải trời xanh cợt má đào!

Và, khi mùa thu đến. Nhìn trời thu, mây thu, sắc thu nhuộm úa lá vàng, dưới bầu trời ảm đảm, lá vàng rơi lả tả, bài "Thu phong oán" của Chiêu Quân còn truyền tụng do một tình cảm dạt dào sâu đậm của một kỷ nữ ly hương:

Thu mộc thê thê
Kỳ diệp huy hoàng
Hữu điểu xử sơn
Tập ư bào tang
Dưỡng dục mao vũ
Hình dung sinh quang
Kỳ đắc thanh vân
Thượng du khúc phường
Ly cung tuyệt khoáng
Thân thể tồi tàng
Chí niệm ức chẫm
Bất đắc hiệt ngoan
Tuy đắc ẩm thực
Tâm hữu hồi hoàng
Y hà ngã độc
Vãng lai biến thường
Thiên phiên chi yếu
Viễn tập Tây Khương
Cao sơn nga nga
Hà thuỷ ương ương
Phụ hề mẫu hề
Ðạo lý du trường
Ô hô ai tai
Ưu tâm trắc thương!

Tạm dịch:

Cảnh thu hiu hắt lá thu vàng
Trên đỉnh non cao đó rõ ràng
Có một chim kia hay đáo để
Ở ăn tự lúc mới ra giàng

Ra giàng đã đủ cánh lông bay
Thấy rõ hình dung quý giá thay
Trên nóc lầu cao đà đổ xuống
Chín từng mây thẳm đã tung bay

Tung bay nhưng khốn biết sao rày
Sự thế than ôi nỗi nước này
Nỗi nọ đường kia khôn tả xiết
Gan sầu ruột héo ngỏ ai hay!

Ai hay cho khúc đoạn trường này
Cho nỗi quan hoài ở chốn đây
Uống uống ăn ăn khôn đáp lại
Những hờn những oán những sầu cay!

Sầu cay riêng nghĩ xiết bàng hoàng
Biết đến bao giờ hận mới tan
én nọ tung bay xập xè cánh
Ðường xa mấy mấy dặm quan san

Quan san thăm thẳm nỗi lòng đau
Biển rộng non cao chất tủi sầu
Vòi vọi đường xa muôn dặm cách
Mưa nắng sân Lai xót dãi dầu!

Dãi dầu ai hỡi thấu cho chăng?
Lấp đặng cho ai những bất bằng
Những nhớ những thương tầy núi biển
Tình thu chan chứa hận sầu vương
(Bản dịch của Thái Bạch)

Khi đến đài Lạc nhạn, Chiêu Quân bắt được chim nhạn, liền xé lụa cắn móng tay lấy máu viết thư, buộc vào chân nhạn rồi thả cho bay đi, mong nhờ chim mang tin về cố quốc. Nhìn cánh nhạn bay, nhìn dòng sông Hắc Thuỷ âm thầm trôi chảy, nàng tê tái lòng, thở dài:

Thủy hà sóng lạnh gió đìu hiu
Cánh nhạn lê thê giải nắng chiều
Thấp thoáng mây về nơi lữ thứ
Mơ màng một giấc mộng cô liêu

Ngâm thơ xong, nàng lao mình xuống sông Hắc Thuỷ!

Trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của cụ Nguyễn Ðình Chiểu, có câu:

Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ
Bởi người Diên Thọ hoạ đồ cho nên

"Quá quan nầy khúc Chiêu Quân" tức là khúc đàn của Chiêu Quân gảy khi qua cửa ải của biên giới hai nước Trung Hoa (Hán) và Hồ (Hung Nô) trên đường sang cống Hồ

Một khúc đàn buồn não ruột, ai oán để kết thúc cuộc hội ngộ của đôi bạn tình vừa tưng bừng rộn rã, êm đềm thánh thót lại chan chứa hận chia ly! .