Câu hỏi: Hãy phân tích đường lối cách mạng Việt Nam được Nguyễn Ái Quốc thể hiện trong tác phẩm đường cách mạng ?
Trả lời:
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, điều cốt yếu đầu tiên mà Nguyễn Ái Quốc yêu cầu cách mệnh cần phải có đó là đảng cách mệnh. Người viết: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản mọi nơi”.
Để khẳng định được điều này, ngay từ rất sớm, Nguyễn Ái Quốc đã có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức, để cho ra đời một chính Đảng đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Tháng 12-1920, tại Đại hội lần thứ 18 Đảng xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III, và là một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đã đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Người.
Năm 1925, sau khi về Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên trên cơ sở cải tổ Tâm Tâm Xã “với mục đích đưa thanh niên trong nước ra Quảng Châu, huấn luyện họ, rồi phái họ trở về tuyên truyền và tổ chức khắp cả nước”.
Bằng những nỗ lực đầy quyết tâm của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác - Lênin đã được truyền bá và tạo nên những tác động mạnh mẽ vào phong trào cách mạng Việt Nam.
Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc với những đồng sự đã khẩn trương chuẩn bị thành lập Đảng vô sản kiểu mới. Đảng đó có nhiệm vụ lãnh đạo toàn dân đánh đổ bọn đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến giành lại độc lập cho dân tộc.
Rõ ràng, muốn cách mạng thành công phải có Đảng lãnh đạo. Song nếu chỉ dừng lại ở đó không thì chưa đủ, mà Đảng đó phải vững. Đảng muốn vững, muốn mạnh phải có một lý luận soi đường. Lý luận đối với cách mệnh Đảng như trí khôn đối với người, bàn chỉ nam đối với con tàu. Làm cách mạng mà không có lý luận soi đường như đi trong đêm tối mà không có đuốc, phải mò mẫm rất khó.
Bằng sự phân tích sâu sắc trên cơ sở cứ liệu chính xác qua tác phẩm Đường cách mệnh Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra con đường mà cách mạng Việt Nam phải theo đó là con đường cách mạng Tháng Mười, Người viết: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.
Trong điều kiện biến đổi của tình hình thế giới nửa sau những năm 30, Người chỉ rõ mục tiêu của đấu tranh cách mạng lúc này là Đảng không nên đưa ra những đòi hỏi quá cao (độc lập dân tộc, nghị viện…) chỉ nên đòi các quyền dân chủ, tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do báo chí…, đấu tranh để Đảng được hoạt động hợp pháp. Muốn đạt được mục đích đó, Đảng phải khéo léo, mềm dẻo để tập hợp tất cả mọi tầng lớp nhân dân… nhưng phải kiên quyết không có một thỏa hiệp, một nhượng bộ nào với bọn tờrôtkit, phải tiêu diệt chúng về mặt chính trị…
Như vậy, ở mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng phải có đường lối chủ trương rõ ràng, phù hợp với thực tế. Để làm được điều đó, Đảng phải nhạy bén, phải linh hoạt, phải không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ lý luận của mình để có những quyết sách đúng.
Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: chỉ có Đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công.
Thấm nhuần tư tưởng trên của Hồ Chí Minh - qua tác phẩm Đường cách mệnh - từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nêu cao vai trò tiên phong của mình, luôn thể hiện là một đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, luôn kiên định giữ vững lập trường của giai câp vô sản, lấy lý luận Mác - Lênin làm nòng cốt.
Từ thực tiễn của các cao trào đấu tranh cách mạng giai đoạn 1930 -1945, giai đoạn 9 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp và 21 năm chống Mỹ, thống nhất nước nhà, đặc biệt từ khi đổi mới (năm 1986) đến nay, chúng ta càng không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Sự vĩ đại của Đảng càng thể hiện rõ hơn hết là sau 20 năm lãnh đạo đất nước tiến hành đổi mới đã đưa nước ta thoát khỏi những khủng hoảng về kinh tế - xã hội và đạt được những thành tựu rực rỡ: kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa phát triển, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Có được như vậy là do Đảng ta luôn không ngừng nâng cao trình độ lý luận, đúc rút kinh nghiệm thực tiễn, từng bước bổ sung hoàn thiện đường lối đổi mới một cách sáng tạo, khoa học và đúng đắn.
Thật vậy, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, đưa nước ta bước vào thời kỳ mới, thời kỳ chắp cánh vươn mình ra thế giới, Đảng ta luôn xác định: phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Thực tiễn cho thấy, trong tất cả các thời kỳ cách mạng, Đảng ta đều rất coi trọng công tác xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Đảng ta khẳng định: “Toàn bộ thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng ta. Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu đổi mới”.
Hơn 75 năm trôi qua, trải qua biết bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành công rực rỡ, điều này không ai có thể phủ nhận được. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thành công đó, là do Đảng ta luôn xác định đúng con đường, hướng đi của mình. Con đường, hướng đi đó rõ ràng đã được Hồ Chí Minh vạch ra từ rất sớm - trong tác phẩm Đường cách mệnh - đó chính là Đảng phải luôn làm tròn vai trò lãnh đạo của mình, phải luôn xây dựng Đảng vững mạnh, “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”, đó chính là chủ nghĩa Mác-Lênin.
Như vậy, những luận điểm mà Hồ Chí Minh nêu lên trong tác phẩm Đường cách mệnh về con đường mà cách mạng Việt Nam phải trải qua, đã trở thành định hướng xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo của Đảng ta và 80 năm qua vẫn còn nguyên giá trị, luôn soi đường cho Đảng ta đi tới. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh được điều đó, chứng minh một luận chứng hùng hồn: Một dân tộc dù nhỏ bé, đất không rộng người không đông, nhưng có một đảng tiên phong với một lý luận khoa học soi đường, chiến đấu với một tinh thần đoàn kết chặt chẽ một lòng… sẽ đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. vẫn được giải phóng, xã hội còn đầy bất công. Đảng viên Hồ Chí Minh cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt để của một cuộc cách mạng là qui mô giải phóng nhân dân lao động bị áp bức. Cách mạng dân chủ tư sản do bản chất của nó, chỉ là sự thay thế hình thức áp bức bóc lột khác và tại bộ phận người lao động vẫn sống cực khổ. Dưới nhãn quan của Hồ Chí Minh chỉ có cách mạng tháng 10 Nga là triệt để là thành công đến nơi, nhân dân lao động đã được giải phóng và trở thành người chủ của xã hội. Người đã nhận định : “ Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mạng Nga đã đuổi được vua, tư bản, điạ chủ, rồi lại ra sức cho công nông các nước và dân bị áp bức các thuộc điạ làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa, tư bản và thế giới”. Từ đó mà Người đã lựa chọn con đường cho cách mạng Việt Nam là đi theo cách mạng tháng 10.
Chính vì vậy cũng có thể nói rằng: muốn đưa cách mạng Việt Nam tới chỗ thành công thì không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản.
Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một là công cuộc đổi mới hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn mãi sáng soi cho cả dân tộc đi đến mục tiêu mà. Người đã lựa chọn cho nhân dân ta từ những năm 30 của thế kỷ 20. Đảng ta củng cố xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí MInh làm nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảngvà cách mạng Việt nam. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta phải kiên trì với mục tiêu đấu tranh dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng, là vấn đề có tính nguyên tắc. Phải giữ vững định lý xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, đổi mới để có chủ nghĩa xã hội và hơn chứ không phải để “ đổi màu”. Trong sự nghiệp đổi mới, cần đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần quí báu của Đảng và dân tộc, tư tưởng đó luôn sống động mang tính khoa học và cách mạng cho nên cần được giữ gìn. Mỗi cán bộ Đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh và hành động theo tư tưởng của Người. Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong gần 80 năm qua không thể tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh và ngày nay tư tưởng đó tiếp tục sáng soi cho toàn Đảng, toàn Dân trên chặng đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, biến ước mơ cao đẹp “ xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” của Người sớm trở thành hiện thực./
Đường Kách Mệnh
Tác phẩm Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Lý luận của tác phẩm không sách vở mà vạch ra lý luận cách mạng Việt Nam thiết thực, tri thức lý luận cách mạng Việt Nam đã được hiện diện trong tác phẩm rất mácxít nhưng cũng rất Việt Nam, dễ hiểu, dễ tiếp thu, kết hợp rất tài tình phương pháp lịch sử và lôgích. Dùng lịch sử để nói lý luận, từ Cách mạng Pháp đến Cách mạng Nga và kết luận ở Cách mạng Nga, rồi lấy lý luận soi sáng thực tiễn Việt Nam, và kết luận: Chỉ có cách mạng vô sản mới giải phóng được dân tộc.
I- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
1. Thế giới
Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tiếp nối và phát triển những tư tưởng giải phóng con người của nhân loại. Nó đã trở thành vũ khí tư tưởng của giai cấp vô sản đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Được học thuyết khoa học và cách mạng soi đường, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản các nước trên thế giới đã phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của các Đảng Cộng sản như: Đảng xã hội - dân chủ Nga được thành lập (1903); Đảng Cộng sản Pháp được thành lập (1920); Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời (1921)...
Năm 1917, Đảng Cộng sản Bônsêvích Nga đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Cách mạng Tháng Mười Nga là bằng chứng khẳng định giá trị thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cũng báo hiệu thời kỳ đấu tranh giành thắng lợi của giai cấp vô sản thế giới bắt đầu.
Năm 1919, Quốc tế III - Bộ Tham mưu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế được thành lập. Quốc tế III đã quan tâm đến cách mạng thuộc địa. Bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đã tác động trực tiếp đến phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Đối với Nguyễn Ái Quốc, Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin là bước tiến nhảy vọt và dứt khoát trong nhận thức tư tưởng của Người. Người quyết định chọn chủ nghĩa Mác - Lênin làm hệ tư tưởng cứu nước. Như vậy, thời đại đã mở ra điều kiện mới - cả tư tưởng chính trị và cả tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở các nước. Chính thời đại cũng dẫn dắt phong trào cách mạng các dân tộc trên thế giới đi vào quỹ đạo chung của cách mạng vô sản.
2. Việt Nam
Đặc điểm nổi bật của Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn cơ bản là: giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và giữa giai cấp phong kiến Việt Nam với toàn thể nhân dân (chủ yếu là nông dân). Yêu cầu của lịch sử lúc này là phải giải quyết mâu thuẫn cơ bản đó để đưa dân tộc tiến lên.
Dưới ách thống trị của thực dân - phong kiến, đã có hàng trăm cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản, nhưng rút cuộc, đều không giải quyết nổi nhiệm vụ mà lịch sử đang đặt ra, nhân dân đang mong đợi là giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân phong kiến.
Bước vào những năm 20 của thế kỷ XX, trong phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều tổ chức yêu nước mang sắc màu chính trị khác nhau, như: Tâm tâm xã ( l923 - 1925), Hội phục Việt (1925), Đảng thanh niên (1926), Thanh niên cao vọng Đảng (1926 - 1929), Tân Việt cách mạng Đảng (1926 - 1930), Việt Nam quốc dân Đảng (1927 - 1980). Song, các tổ chức yêu nước này thiếu đường lối chính trị đúng đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ như một đảng cách mạng khoa học, cho nên, họ không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử.
Thực tiễn lịch sử đang đòi hỏi phải có một tổ chức mới, được xây dựng trên cơ sở hệ tư tưởng cách mạng và khoa học, có đường lối chính trị đúng đắn, có tổ chức chặt chẽ thì mới lãnh đạo cách mạng đi đến thành công.
II- Tư tưởng cơ bản và nội dung của tác phẩm
1. Tư tưởng cơ bản của tác phẩm
Mục đích tác phẩm được tác giả chỉ rõ: “Muốn sống thì phải cách mệnh”. “Hơn hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi”. Thà chết tự đo còn hơn sống nô lệ, quyết chiến đấu cho nền độc lập tự do của dân tộc là tinh thần của tác phẩm. Có thể nói, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là quan điểm bao trùm toàn bộ tác phẩm.
Tác phẩm cũng chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của độc lập tự do và vạch con đường cụ thể để giành thắng lợi.
Tinh thần xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là vì độc lập tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, phải giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân ra khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc.
Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là quan điểm tư tưởng chỉ đạo con đường cách mạng Việt Nam. Giải phóng nhân dân phải gắn với sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc phải theo quỹ đạo của cách mạng vô sản, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội, lợi ích của dân tộc với lợi ích của giai cấp vô sản phải gắn bó với nhau. Thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc đều phải giải quyết trên cơ sở quan điểm cách mạng vô sản để đưa cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng giải phóng dân tộc chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa chi phối cách mạng giải phóng dân tộc.
Cách mạng phải triệt để, tích cực, chủ động và sáng tạo. Tác giả đưa dẫn chứng các cuộc cách mạng trên thế giới để đi đến khẳng định rằng, cách mạng Việt Nam phải giành thắng lợi triệt để: “Muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh; phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Cách mạng phải độc lập và sáng tạo, tự lực, tự cường, không ỷ lại ngồi chờ; phải tích cực tấn công, chủ động tiến công, quyết giành thắng lợi. Biết tranh thủ sự giúp đỡ của cách mạng thế giới, nhưng cũng phải có đóng góp cho cách mạng thế giới, cùng cách mạng thế giới đạp đổ chủ nghĩa đế quốc tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những tư tưởng cơ bản trên đã nâng giá trị của tác phẩm lên tầm cao.
2. Nội dung của tác phẩm
a) Tư cách một người cách mệnh
Tư cách một người cách mệnh được đặt lên vị trí hàng đầu của tác phẩm. Nội dung gồm 3 phần:
- Tự mình phải cần kiệm - liêm chính - vị công vong tư. Giữ chủ nghĩa cho vững…
- Đối người phải: với từng người thì khoan thứ. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người.
- Làm việc phải : Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán, dũng cảm, phục tùng đoàn thể.
Tác phẩm đã nêu lên những vấn đề cơ bản của đạo đức mới - đạo đức của người cộng sản. Đó là phải có đức và tài, trí và dũng, tư cách và năng lực theo kiểu người cộng sản. Đó là con người một lòng một dạ. Đó là con người có tổ chức, gắn bó với tổ chức, với đoàn thể. Đồng thời biết phát huy năng lực cá nhân. “Tư cách người cách mệnh” khác hẳn với chủ nghĩa anh hùng cá nhân, đặt mình lên trên tổ chức, đề cao cái tôi đạo đức của người đảng viên cộng sản được đề cập trong tác phẩm phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc ta, đáp ứng yêu cầu của cách mạng và cũng rất đúng với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức của người cách mạng. “Tư cách người cách mệnh” đã dễ dàng chinh phục lòng người, tiếp thêm sức mạnh và định hướng phấn đấu cho tất cả những ai yêu nước, thương nòi, muốn giải phóng quê hương xứ sở ra khỏi mọi áp bức bóc lột, xây dựng đất nước theo hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
“Tư cách người cách mệnh” có giá trị khoa học và giáo dục lớn đặt cơ sở cho đạo đức học ở Việt Nam.
b) Con đường cách mệnh
Tác giả đưa ra khái niệm “cách mệnh”: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”.
Từ đó, tác giả xác định các loại cách mạng:
- Tư bản cách mệnh như cách mệnh Pháp năm 1789, Mỹ cách mệnh độc lập năm 1776; Nhật cách mệnh năm 1864.
- Dân tộc cách mệnh như: Italia đuổi cường quyền Áo năm 1859; Tàu đuổi Mãn Thanh 1911.
- Giai cấp cách mệnh như công nông Nga đuổi tư bản và giành lấy chính quyền 1917.
Tác giả giải thích nguyên nhân sinh ra các loại cách mệnh ấy. Từ phân tích mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn giai cấp, tác giả xác định tính chất cách mệnh. Dân tộc cách mệnh là dân tộc nô lệ đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi để giành độc lập tự do. Giai cấp cách mệnh là giai cấp bị áp bức cách mệnh để đạp đổ giai cấp đi áp bức mình.
Về dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh, tác giả đều lấy ví dụ Việt Nam. Khi kết luận, tác giả cũng nói đến sự cần thiết phải tiến hành dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh ở Việt Nam. Cách mệnh Việt Nam phải tiến hành giải phóng dân tộc để tiến lên giải phóng giai cấp. Việt Nam phải làm cả dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh.
Tác giả phân tích kỹ Cách mạng tư sản Pháp 1789, Cách mạng tư sản Mỹ 1776, Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 và chỉ ra kinh nghiệm lịch sử của các cuộc cách mạng này: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”. “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật”. Từ lịch sử và thực tiễn, tác giả đã định hướng cho các mạng Việt Nam là đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga “theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Tác giả cũng xác định rõ bạn và thù của cách mệnh Việt Nam. Đế quốc Pháp đã chà đạp lên nền độc lập của dân tộc, đặt ách áp bức bóc lột đối với nhân dân ta. Do đó, đế quốc Pháp vừa là kẻ thù của dân tộc và cũng là kẻ thù của giai cấp. Tác giả phân biệt rạch ròi giữa đế quốc Pháp và nhân dân Pháp trước hết là công nông Pháp. Từ đó, nêu mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam với giai cấp cách mệnh Pháp nói riêng và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản chính quốc nói chung.
Còn giai cấp phong kiến địa chủ, tác giả có phân loại: điền chủ nhỏ là bầu bạn cách mệnh công nông, những đại địa chủ thì chớ có cho họ vào hội của dân cày. Việc xác định đúng, chính xác kẻ thù cơ bản là chủ nghĩa đế quốc Pháp có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng chiến lược và sách lược cách mạng, trong việc tập hợp lực lượng, phân hóa, cô lập cao độ kẻ thù, nhằm tăng sức mạnh cho cách mạng. Đây là tầm tư duy của thiên tài rất biện chứng, cách mạng và khoa học vượt lên tầm tư duy đương thời của nhiều người cho rằng, đã địa chủ tất nhiên sẽ là kẻ thù của cách mạng, là đối tượng đứng về phía đế quốc.
c)Về lực lượng cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ rõ: Công nông là người chủ cách mệnh “là vì công nông bị áp bức nặng hơn, là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết, là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. “Học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”.
Người đã căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất nước, thái độ của các giai cấp trong xã hội, đối với cách mạng để vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp, không giáo điều, máy móc. Vì vậy, lực lượng cách mạng vừa đông, vừa mạnh, nhưng vẫn đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
d) Về đoàn kết quốc tế, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ rằng, cách mạng Việt Nam phải đoàn kết với các lực lượng cách mạng thế giới: “Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng cách mệnh trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa (như Đệ tam quốc tế)”. Người đưa ra những dẫn chứng cụ thể, đầy sức thuyết phục để xác định lực lượng đồng minh quốc tế của cách mạng Việt Nam “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”. Cách mạng Việt Nam cũng phải liên minh với cách mệnh Pháp và có thể thành công trước cách mệnh Pháp. “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ”.
Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới cũng đều là đồng chí của nhân dân Việt Nam. Đã là đồng chí thì sung sướng cực khổ phải có nhau.
Như vậy, về đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh nêu 3 vấn đề lớn:
- Cách mạng Việt Nam phải đứng hẳn về phía phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc thế giới để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa trên thế giới.
- Xác định rõ quan hệ lợi ích dân tộc và cách mạng thế giới, giữa quyền lợi và trách nhiệm, sự thống nhất của quan hệ này.
- Xác định rõ quan hệ cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc là tác động qua lại. Cách mạng thuộc địa không thụ động ngồi chờ cách mạng chính quốc.
Với những luận điểm trên, tác phẩm đã đặt nền tảng đúng đắn cho đường lối quốc tế của đảng, và đặt cơ sở cho sự giúp đỡ của quốc tế trong thời kỳ thành lập Đảng.
đ)Về phương pháp cách mạng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng, phương pháp cách mạng giữ vai trò hết sức quan trọng: “Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội mới, ấy là rất khó. Nhưng biết cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà làm thì chắc làm được”. Đó là:
- Phải làm cho dân giác ngộ.
- Phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu.
- Phải hiểu phong trào thế giới, phải bày sách lược cho dân.
- Phải đoàn kết toàn dân “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người”... “Đàn bà, trẻ con cũng giúp làm việc cách mệnh được nhiều. Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”.
- Phải biết tổ chức dân chúng lại, tác giả nhấn mạnh vai trò của tổ chức: cách mạng phải có tổ chức rất vững bền thì mới thành công. Tác giả đưa ra cách tổ chức quần chúng như công hội, dân cày, hợp tác xã, thanh niên, phụ nữ, quốc tế cứu tế đỏ...
- Phải giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng của quần chúng, phải biết chọn thời cơ.
Tóm lại, tác phẩm đã nêu lên những quan điểm cơ bản về phương pháp cách mạng Việt Nam trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tổng kết kinh nghiệm cách mạng các nước. Những quan điểm đó là cơ sở cho Đảng xây dựng phương pháp cách mạng của mình.
Về Đảng Cộng sản, Đảng là điều kiện đầu tiên để đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mệnh. “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin. “Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Nguyễn Ái Quốc luôn có ý thức xây dựng lập trường chính trị, bản chất giai cấp công nhân, tính cách mạng triệt để của Đảng. Những tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam của Người là những phác thảo cho đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người phân tích sâu sắc lịch sử cách mạng Nga để quán triệt bài học kinh nghiệm về xây dựng Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam.
Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên được Người đề cập gần như xuyên suốt tác phẩm. Toàn bộ tác phẩm đã thể hiện nội dung đó.
Bằng tư tưởng xây dựng Đảng Cộng sản ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng yêu cầu bức bách của lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
III- Ý nghĩa của tác phẩm
1. Tác phẩm Đường cách mệnh có vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự thành lập chính Đảng cách mạng ở Việt Nam.
- Về tư tưởng: Tác phẩm có ý nghĩa giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc cho cán bộ và đông đảo quần chúng nhân dân, nhằm xây dựng sự thống nhất trong nhận thức tư tưởng, chuẩn bị thành lập Đảng.
Tác phẩm khắc phục tư tưởng sai lầm, ám sát cá nhân, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa quốc gia; xác lập hệ tư tưởng mới - tư tưởng của giai cấp công nhân.
- Về chính trị: Tác phẩm xây dựng lập trường, quan điểm của giai cấp công nhận cho cán bộ và quần chúng công nông. Vạch ra được đường hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam, làm cơ sở cho việc xây dựng Cương lĩnh chính trị của Đảng.
Tác phẩm Đường cách mệnh ra đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam; thúc đẩy phong trào yêu nước, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ .
- Về tổ chức: Đào tạo ra một lớp cán bộ cách mạng kiểu mới chuẩn bị cho việc thành lập Đảng. Tác phẩm cũng đưa ra hệ thống tổ chức của Đảng và các tổ chức quần chúng như công hội, nông hội, thanh niên, phụ nữ... để Đảng tập hợp quần chúng, chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
2. Tác phẩm Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Lý luận của tác phẩm không sách vở mà vạch ra lý luận cách mạng Việt Nam thiết thực, tri thức lý luận cách mạng Việt Nam đã được hiện diện trong tác phẩm rất mácxít nhưng cũng rất Việt Nam, dễ hiểu, dễ tiếp thu, kết hợp rất tài tình phương pháp lịch sử và lôgích. Dùng lịch sử để nói lý luận, từ Cách mạng Pháp đến Cách mạng Nga và kết luận ở Cách mạng Nga, rồi lấy lý luận soi sáng thực tiễn Việt Nam, và kết luận: Chỉ có cách mạng vô sản mới giải phóng được dân tộc.
Tác phẩm cũng là một hình mẫu của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam của tác giả. Ví dụ: Lênin cho rằng, cách mạng thuộc địa chỉ có thể giành được thắng lợi khi có sự giúp đỡ của cách mạng chính quốc, khi cách mạng vô sản chính quốc đã giành thắng lợi, nhưng tác phẩm phát hiện thêm rằng, cách mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng vô sản ở chính quốc và tác động tích cực đối với cách mạng chính quốc.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin bàn nhiều về vấn đề giải phóng dân tộc. Tác phẩm chỉ rõ dân tộc và giai cấp kết hợp với nhau, giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản...
Tác phẩm Đường cách mệnh đã thể hiện thiên tài lý luận cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, tác phẩm có giá trị thực tiễn lớn lao, tạo ra sự chuyển biến căn bản, nhanh chóng trong nhận thức và hành động cách mạng của cán bộ và đông đảo quần chúng, chuẩn bị tiền đề cho việc thành lập Đảng.
Như vậy, trước khi Đảng ra đời, ở Việt Nam đã có sự thống nhất về tư tưởng chính trị và tổ chức. Đó là điều kiện trực tiếp giữ vững sự thống nhất trong Đảng ngay từ khi mới thành lập cũng như sau này. Tác phẩm Đường cách mệnh là một kho tàng tri thức lý luận cách mạng Việt Nam, là sự thể hiện tư tưởng cơ bản của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Giá trị của tác phẩm càng được khẳng định khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố rằng, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Theo Giới thiệu tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngnghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, Nxb CTQG, H, 1999.
Nguồn: Sưu tầm .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét