Ơ hay, trầu cau hoá ra lại là
thần dược. Và bên lề câu chuyện nghĩa tình ông cha ta vẫn kể, vẫn còn một
thiên truyền kỳ hấp dẫn khác.
trầu. Ngoài vôi, cau trầu thường được ăn
với vỏ cây. Cũng như ở các nước Đông Nam Á khác, cau trầu có mặt trong tất
cả các buổi lễ cúng, cưới hỏi, trang hoàng, trong hoàng tộc cũng như ngoài
dân gian. Nó "biểu tượng cho sự kính trọng, cho lòng biết ơn, cho sự tạ
lỗi. Mỗi khi nhà có việc, đều không thể thiếu cơi trầu, bình vôi - người
bạn đường chung thủy của trầu cau - là quyền lực của người nội tướng trong
gia đình...".
Nếu bản thân cau trầu luôn là bài thơ muôn
thuở của con người, thì ngày nay khoa học lại phân tích tìm kiếm trong
loại thảo mộc này những tính chất dược lý có thể ứng dụng trong đời sống
hằng ngày. Mang tên khoa học pepper (hay piper) betle (hay betel) L.; trầu,
hay trầu không thuộc họ hồ tiêu piperaceae. Tên khoa học của cau, còn được
gọi binh lang, tân lang, là areca catechu L., thuộc họ cau arecaceae. Ở
nước ta, nhân dân dùng lá trầu giã nhỏ, cho thêm nước sôi vào dùng rửa
những vết loét, mẩn ngứa, viêm mạch bạch huyết. Nước pha lá trầu còn được
dùng làm thuốc nhỏ mắt chữa viêm kết mạc, chữa bệnh chàm mặt của trẻ em.
Trước kia, các thầy thuốc ở Ấn Độ từ thế kỷ
thứ 1, các lương y Ả Rập ở thế kỷ 10 đã công nhận những giá trị y học của
cau trầu. Sách xưa ghi miếng trầu kích thích nhiệt huyết, đem hương vào
miệng, củng cố cơ thể, nảy nở vẻ đẹp, tiêu tan bệnh tật, giúp thêm điềm
tĩnh,... Nó còn có khả năng tăng sức tim, chữa đau răng, củng cố nướu răng,...
Có nơi còn giã lá trầu đắp lên ngực để chữa ho
và hen, hoặc đắp lên vú cho sữa không ra nữa. Trái cau thường được dùng
làm thuốc lợi tiểu (gọi là đại phúc bì), chữa giun sán cho người và súc
vật, giúp tiêu hoá, chữa viêm ruột, lỵ, trẻ con chốc đầu, hợp với thường
sơn, thảo quả trong đơn thuốc "trường sơn triệt ngược" chữa sốt rét.
Đem phân tích, lá trầu chứa đựng 5
propenylphenol có tính chất khử nấm, trừ giun: chavicol, chavibetol, allyl
pyrocatechol, chavibetol acetat, allylcatechol acetat. Những chất phenol
khác cũng đã được tìm ra: hydroxy chavicol, eugenol, methyl eugenol,
isoeugenol, flavon, quercetin, nhiều nhất là safrol trong hoa. Hydroxy
chavicol, tác dụng mạnh nhất, cùng eugenol và tocopherol là những chất
kháng oxy hoá đã được chiết xuất từ thân trầu. Những chất 3beta-acetyl
ursolic acid, ursolic acid và beta-sitosterol có tính chất chống viêm.
Người ta biết khi thay đổi pH, chẳng hạn lúc
tiếp xúc với vôi là một chất alcali, những alcaloid có khả năng thay đổi
màu, ví dụ nhuộm đỏ trong nước miếng người ăn trầu. Vôi có khả năng ức chế
methyl mercaptan phát tiết ra ngoài nên ăn trầu đỡ hôi miệng.
Trong một cuộc khảo cứu rộng lớn trên 100 thảo
mộc ở châu Á, hãng Coreana Cosmetics đã tìm ra cau cùng với riềng, nghệ,
cải, đinh hương, đơn bì, đại hoàng,… trong số những cây có thể dùng để
chiết xuất chất kháng oxy hoá.
Một ứng dụng được thực hiện dựa lên tính chất
này là cho trộn cau với dương mai hay riềng Curcuma longa, đinh hương
Syzygium aromaticum, mộc hương Saussurea lappa (có khả năng khử melanin)
làm thuốc bảo vệ da.
Có mỹ phẩm dựa lên tính chất khử thải những
gốc tự do của cau, hỗn hợp với vitamin C hay cam thảo bắc Glycyrrhiza
glabra. Nhờ khả năng ức chế tác dụng 5-nucleotidase, glucotransferase
trong Streptoccocus mutans của những chất phenol, procyanidin và acid mỡ,
cau được dùng để chữa sâu răng, trị viêm răng, chống mảng răng.
Trước đây, nhiều người dùng vỏ trái cau chà
răng - một vật liệu vừa hữu hiệu vừa dễ kiếm cần được khuyến khích. Các
chất phenol, đặc biệt là ester, thức biệt thành NF-86I, NF-86II, NPF-86IA,
NPF-86IB, NPF-86IIA, NPF-86IIB nên cau được đưa vào thuốc trị u khối, chữa
các chứng nhiễm virus. Vì ức chế glycerophosphat deshydrogenase, chúng
được cho vào thức ăn chống béo.
Trong cau có một phần tannin ức chế được enzym
chuyển đổi angiotensin nên được xem là chất chống huyết áp. Dùng dichloro
methan chiết xuất, cau cống hiến một chất thuốc chống trầm cảm.
Một vấn đề khá quan trọng đã được nhiều giới
khoa học lưu ý, đặc biệt ở Ấn Độ là khả năng gây ung thư của miếng trầu.
Các bài tổng kiểm đã được sử dụng, lược kê gần 500 Kết luận đến nay chưa
ngã ngũ rõ ràng.
Theo giáo sư P.C. Gupta, người đã theo dõi lâu
ngày lĩnh vực này tuy thực nghiệm không chứng minh được miếng trầu không
thêm thuốc lá đã đem lại ung thư, cau trong miệng đã gây các xơ dưới niêm
mạc trong miệng - tức là một tổn thương tiền ung thư.
Một người hút thuốc đã có sẵn những xơ này tất
nhiên dễ bị ung thư hơn những người khác. Ông lập chương trình phòng ngừa:
ngừng hút thuốc nếu ăn trầu và khám nghiệm kịp thời để phát giác thời tiền
ung thư. Sau cùng, một cuộc khảo sát tại Đại học Đài Loan đặt lại toàn thể
vấn đề. Theo các tác giả bài báo này thì tính độc của polyphenol, alcaloid
và tannin trong cau chưa được chứng minh rõ ràng và cần phải được xem lại.
Phản ứng oxy hoá những polyphenol của cau trong nước miếng người ăn trầu
cho phát xuất những loại oxy có hoạt tính lớn là mấu chốt mọi khởi xướng
và phát triển ung thư miệng.
Phản ứng nitro hoá các alcaloid cấu tạo nên
các nitroamin đặc thù của cau đã được chứng minh là những chất gây đột
biến, rất độc về mặt gen và có khả năng cho đột nhập u khối vào thú vật
như arecaidin và phần chiết từ cau.
Nhiều thí nghiệm cần được thực hiện để nêu rõ
sự chuyển hoá của những thành phần cau và vai trò của chúng trong phản ứng
nhiều đợt gây ung thư, để từ đó tìm ra phương pháp phòng ngừa và chữa ung
thư miệng cũng như u xơ dưới niêm mạc miệng.
Tinh dầu trầu có tác dụng hạ huyết áp, duỗi
bắp cơ, trị giun sán, chữa dị ứng như lá trầu. Trầu có khả năng hủy bỏ tác
dụng đột biến của những chất gây ung thư nitrosonornicotin và methyl
nitrosoamino pyridyl butanon từ thuốc lá nhờ eugenol, hydroxy chavicol,
chlorophyll, vitamin C cũng như chống dimethyl benz [a] anthracen nhờ
beta-caroten.
Trầu chiết được dùng với bạc hà trong hỗn hợp
thuốc thơm để cho vào nước súc miệng. Có hoạt kháng chống oxy hoá, lá trầu
làm bơ, dầu chậm khét - nhờ vậy giữ được lâu.
Mỗi lần về quê, nhìn hàng cau trong nắng, tôi
nhớ đến Hàn Mặc Tử, nhớ qua thôn Vỹ, nhớ về Nam Phổ làng xưa. Bên tai tôi,
từ phương trời Tây luôn văng vẳng giọng hát ngọt ngào của Thu Hiền:
Nhà anh có một vườn cau,
Nhà em có một vườn trầu…
Song song với những khảo cứu y khoa, kỹ nghệ
cũng tìm cách ứng dụng tính chất của cau. Những phenol có khả năng bảo vệ
nucleotid, chống tác dụng phá hoại của enzym được dùng bảo vệ rau quả như
dưa chuột để giữ hương vị. Chúng ức chế urease chế tạo ammoniac trong urea
nên được dùng làm thuốc thơm. Người ta đã làm thuốc nhuộm vải, lụa với
phần chiết từ cau. Tannin được trộn với natrium sulfat, natrium carbonat
làm thuốc nhuộm tóc đen xám. Nhờ chất proanthocyanidin, đặc biệt chất
epicatechin-catechin, cau được hoà với một số chất để làm thuốc kích thích
tóc mọc. Một loại giấm giàu enzym và amin acid, xúc tiến sự tiêu hoá, gồm
có một phần hột cau, nước gừng, cải củ, khoai mài,... Thân cau có nhiều
lignin, ít hollocellulose, có tính chất cơ lý học tương đương gỗ cứng
thường dùng làm giấy. Vỏ trái cau đem xử lý với nấm đỏ Phanerochaete
chrysosporium tăng số lượng protein lên 100%, nếu để nguyên cho ủ thì
lignin huỷ hoại đến 62% nhưng năng suất khí methan phát ra tăng lên 48%.
Vỏ trái cau dùng đánh răng, vừa rẻ tiền, vừa vệ sinh.
Bên Indonesia, khi chàng trai hỏi ý cô gái, cô
gửi trả miếng trầu bọc hai lá: nếu úp cùng chiều là cô ưng ý. Cô vợ Arakan
bên Myanmar thì xé lá trầu làm hai đưa cho chồng một nửa: nếu quấn làm
miếng trầu ăn là anh đồng ý để vợ ra đi. Không phải tình cờ mà người Mã
Lai lấy tên cây cau - pinang, đặt tên meminang cho cuộc dạm hỏi; pinangam
cho đám hỏi, còn người ở đảo Bali thì đặt tên núi Pinang Gunggam. Bên Ấn
Độ, bất cứ lễ sinh con hay lễ tế người chết đều phải có cau trầu. Người
Borneo đặt cau trầu quanh thi hài người quá cố cùng những vật thường dùng
hằng ngày. Người Sumatra mang cau trầu đi biếu lúc đến viếng và lúc từ giã...
Đi xa hơn, cau trầu còn là mối liên quan giữa
người và thần linh. Nước đỏ bầm khi ăn trầu, rất lạ mắt và có phần ghê tởm
với người phương Tây - lại là sức mạnh cốt tử trong mắt nhiều bộ lạc.
Người Macassar ở Sulavesi dùng nước ăn trầu thoa trán và thái dương trẻ bị
bệnh. Bên Philippines thì nước trầu bôi vào bụng con nít để tránh cảm lạnh.
Ở nhiều nơi khác, nước trầu còn có tính chất bùa yêu mầu nhiệm. Ở Timor,
thầy phù thủy nhìn màu nước trầu trên trán chiến sĩ để suy đoán vũ lực và
khả năng chiến đấu. Bên Java, đường gân lá trầu chỉ định bản chất cơn bệnh,
còn màu nước trầu thì biểu lộ tính tình. Người Batak ở Sumatra cung hiến
miếng trầu cho ma quỷ để chúng khỏi rượt đuổi con người. Ở Bali, hằng ngày
các cô gái mặc áo ngắn, quần jeans, tóc dài da thắm, tươi cười hồn nhiên
đặt những khay trầu bằng lá tí hon trước cửa nhà và khắp nẻo đường, theo
một tục lệ từ xưa.
Theo một số sách khác, nó là một niềm vui
trong đời. Ngày nay, miếng trầu được xếp ngang hàng với guarana, kola,...
những chất nhai chơi có khả năng kích thích. Các tu sĩ Myanmar tin là nhai
trầu cổ vũ suy nghĩ, kích thích tịnh tâm.
Tục lệ cau trầu chỉ được phổ biến ở Âu châu từ
thế kỷ 16, 17, 18, bắt đầu với người Bồ Đào Nha và nối kết sang một số dân
tộc lân cận khác.
GS Võ Quang Yến
Pháp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét