Dưới đây là 10 thực tế kì lạ nhất về những nhà khoa học và toán học nổi tiếng trên khắp thế giới:
Nhà toán học Hy Lạp Pythagoras được cả
thế giới biết đến với định lý Pytago nổi tiếng của ông. Pythagoras là
người đi theo triết lý của thuyết ăn chay, một trong các giáo lý của
thuyết này là nghiêm cấm đụng chạm hay ăn hạt đậu dưới mọi hình thức.
Truyện kể lại rằng hạt đậu là một phần nguyên nhân dẫn đến cái chết của
nhà toán học này. Sau khi bị một băng nhóm tấn công rượt đuổi, Pythagos
vô tình chạy đến một cánh đồng trồng toàn đậu, nhưng ông đã quyết định
thà chết còn hơn bước chân vào cánh đồng này. Chính vì vậy, bọn người
tấn công đã cắt cổ ông ngay tức khắc. (Trong các tài liệu lịch sử, không
có ghi chép nào về nguyên nhân của vụ tấn công.)
Nhà thiên văn học người Đan Mạch của
thế kỉ 16, Tycho Brahe, là một quý tộc rất nổi tiếng, cả về cuộc đời và
cái chết rất đỗi kì cục của ông. Tycho Brahe mất đi chiếc mũi của mình
trong một cuộc đấu kiếm tại trường đại học và phải mang một chiếc mũi
giả bằng kim loại. Là một người rất yêu thích tiệc tùng, ông có hẳn một
hòn đảo riêng, và mời bạn bè đến lâu đài của mình để thỏa sức hội hè.
Tại mọi bữa tiệc, tất cả các vị khách đều nhìn thấy một con nai rừng được Tycho Brahe thuần hóa và một người lùn tên Jepp được ông xem như là một chàng hề luôn ngồi phía dưới bàn và ăn những mẩu thức ăn do Tycho Brahe đưa cho. Tuy nhiên, niềm yêu thích tiệc tùng đã gây nên cái chết của nhà thiên văn học này. Tại một yến tiệc ở Prague (Cộng hòa Séc), Tycho Brahe cứ khăng khăng ở lại bàn tiệc cho dù ông đang rất buồn đi vệ sinh, bởi việc rời khỏi bàn tiệc sẽ làm mất đi phép xã giao lịch sự. Và tất nhiên đó là một việc làm không nên vì Tycho Brahe đã bị nhiễm trùng thận và bàng quang của ông đã bị vỡ 11 ngày sau đó vào năm 1601.
Tại mọi bữa tiệc, tất cả các vị khách đều nhìn thấy một con nai rừng được Tycho Brahe thuần hóa và một người lùn tên Jepp được ông xem như là một chàng hề luôn ngồi phía dưới bàn và ăn những mẩu thức ăn do Tycho Brahe đưa cho. Tuy nhiên, niềm yêu thích tiệc tùng đã gây nên cái chết của nhà thiên văn học này. Tại một yến tiệc ở Prague (Cộng hòa Séc), Tycho Brahe cứ khăng khăng ở lại bàn tiệc cho dù ông đang rất buồn đi vệ sinh, bởi việc rời khỏi bàn tiệc sẽ làm mất đi phép xã giao lịch sự. Và tất nhiên đó là một việc làm không nên vì Tycho Brahe đã bị nhiễm trùng thận và bàng quang của ông đã bị vỡ 11 ngày sau đó vào năm 1601.
8. Nikola Tesla: Chiến công thầm lặng
Nikola Tesla là một trong những anh
hùng không được ngợi ca của ngành khoa học. Sau khi rời khỏi Serbia năm
1884, ông đã chuyển đến Mỹ và nhanh chóng làm việc cho Thomas Edison,
tạo nên các bước ngoặt lớn về máy thu thanh, robot và điện; và một trong
số đó cuối cùng được người đến biết đến là do Thomas Edison phát minh.
(Người phát minh ra bóng đèn thực chất là Nikola Tesla, chứ không phải
Thomas Edison).
Nikola Tesla mắc phải chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) và không hề đụng chạm bất cứ thứ gì thậm chí cả một chút bụi, tóc, khuyên tai bằng trai và nhiều thứ xung quanh khác. Ngoài ra, ông còn bị ám ảnh bởi số 3: ông thường đi vòng quanh một tòa nhà 3 tầng trước khi bước chân vào đó. Và trong mỗi bữa ăn, ông dùng chính xác 18 cái khăn ăn để đánh bóng dao nĩa cho đến khi chúng sáng bóng.
Nikola Tesla mắc phải chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) và không hề đụng chạm bất cứ thứ gì thậm chí cả một chút bụi, tóc, khuyên tai bằng trai và nhiều thứ xung quanh khác. Ngoài ra, ông còn bị ám ảnh bởi số 3: ông thường đi vòng quanh một tòa nhà 3 tầng trước khi bước chân vào đó. Và trong mỗi bữa ăn, ông dùng chính xác 18 cái khăn ăn để đánh bóng dao nĩa cho đến khi chúng sáng bóng.
7. Werner Heisenberg: Vị giáo sư đãng trí
Werner Heisenberg có thể là nhà vật lý
lý thuyết sâu sắc và tinh túy nhất nhưng đầu óc của ông lại luôn để đâu
đâu. Năm 1927, Werner Heisenberg đã phát triển phương trình bất định
nổi tiếng trong cơ học điện tử, dùng để xác định động thái ở quy mô nhỏ
của các hạt nguyên tử nhỏ. Tuy nhiên, nhà vật lý lý thuyết người Đức này
lại trượt kì thi tiến sĩ vì ông chẳng biết cái gì về kĩ thuật thực
nghiệm. Khi một giáo sư, ở Hội Tiến Sỹ, tính vốn rất hay hoài nghi hỏi
Werner Heisenberg về quá trình hoạt động của ắc quy, ông đã không trả
lời được gì.
6. Robert Oppenheimer: Vị học giả cật lực
Nhà vật lý người Mỹ Robert Oppenheimer
là một học giả tin thông 8 ngôn ngữ và đặc biệt yêu thích thơ ca, ngôn
ngữ và triết học. Chính vì vây mà đôi lúc nhà vật lý này không hiểu được
những giới hạn của người khác. Ví dụ, năm 1931, ông đã nhờ một đồng
nghiệp ở đại học California Berkeley (Mỹ), Leo Nedelsky, chuẩn bị môt
bài giảng giùm ông, và nói rằng việc này cũng không có gì khó khăn vì
mọi thứ đều năm trong cuốn sách mà Robert Oppenheimer đưa cho vị đồng
nghiệp. Sau đó, vị đồng nghiệp này quay trở lại với vẻ ngơ ngẩn bởi cuốn
sách mà Robert Oppenheimer đưa cho bạn được viết hoàn toàn bằng tiếng
Hà Lan. Và Robert Oppenheimer đã nói với đồng nghiệp rằng: “Nhưng tiếng
Hà Lan dễ như thế mà!!!”
5. Buckminster Fuller: Viết nhật ký cho đến lúc chết
Kiến trúc sư và cũng là nhà khoa học
Buckminster Fuller nổi tiếng với việc sáng tạo ra vòm trắc địa và một
chiếc ô tô có tên Dymaxion vào những năm 1930. Tuy nhiên, Buckminster
Fuller cũng là một con người khá lập dị. Ông luôn mang 3 chiếc đồng hồ
trên tay để xem giờ ở những nơi khác nhau khi ông đi nước ngoài, và có
những năm ông chỉ ngủ 2 tiếng mỗi đêm. Nhà thiên tài này cũng dành nhiều
thời gian để ghi chép lại cuộc đời mình. Từ năm 1915 đến 1983, khi ông
qua đời, Buckminster Fuller luôn ghi lại rất chi tiết cuộc đời của mình
với việc cứ 15 phút/lần, ông lại chép lại những việc đã xảy ra. Và kết
quả là, nhật ký của ông, có biệt danh Dymaxion chronofiles, được xếp thành một chồng cao 82m và được lưu giữ tại đại học Stanford.
4. Paul Erdős: Nhà toán học vô gia cư
Paul Erdős, một nhà toàn học người
Hungary, đã cống hiến toàn bộ cuộc đời cho công việc của mình đến mức
ông chưa bao giờ lập gia đình, sống nay đây mai đó và thường xuyên xuất
hiện trước cửa nhà bạn mình mà không báo trước, với câu nói “Đầu óc tôi thoáng rồi!”.
Sau những lần nói như vậy, ông thường giải quyết mọi vấn đề trong một
đến hai ngày trước khi đi tiếp. Vào những năm cuối đời, Paul Erdős rất
thèm café và thường uống thuốc cafefin hay các chất kích thích để tỉnh
táo, và làm toán suốt 19 – 20 tiếng mỗi ngày.
3. Richard Feynman: Nhà vật lý nghịch ngợm
Richard Feynman là một trong những nhà
vật lý nổi tiếng và cật lực nhất của thế kỉ 20. Ông đã tham gia và dự
án Manhattan (dự án tối mật của Hoa Kỳ nhằm xây dựng bom nguyên tử).
Nhưng Richard Feynman cũng là người rất nghịch ngợm và hay pha trò. Sau
khi chán dự án Manhattan ở Los Alamos (New Mexico), ông dành thời gian
rảnh để đi phá khóa và két sắt để chứng minh một điều rằng những hệ
thống bảo vệ như thế này rất dễ để bị phá.
Trong khi đang phát triển thuyết điện động lực học điện tử (sau này đưa lại cho Richard Feynman giải Nobel) , ông vẫn thường xuyên hẹn hò với các ả đào ở Las Vegas, trở thành một chuyên gia về ngôn ngữ của người Maya, học hát Tuavn bằng cổ họng và giải thích được làm thế nào mà một vành khung tròn nhỏ bằng cao su có thể dẫn đến vụ nổ của phi thuyền Challenger vào năm 1986.
Trong khi đang phát triển thuyết điện động lực học điện tử (sau này đưa lại cho Richard Feynman giải Nobel) , ông vẫn thường xuyên hẹn hò với các ả đào ở Las Vegas, trở thành một chuyên gia về ngôn ngữ của người Maya, học hát Tuavn bằng cổ họng và giải thích được làm thế nào mà một vành khung tròn nhỏ bằng cao su có thể dẫn đến vụ nổ của phi thuyền Challenger vào năm 1986.
2. Oliver Heaviside: “Siêu lập dị”
Nhà toán học, kiêm kỹ sư điện người
Anh, Oliver Heaviside đã phát triển được những thuật toán phức tạp để
phân tích mạch điện và giải các phương trình vi phân. Tuy nhiên, đại
thiên tài này còn được gọi là “siêu lập dị”. Oliver Heaviside trang
hoàng ngôi nhà của mình bằng những tảng đá granite khổng lồ, sơn móng
tay bằng màu hồng tươi, chỉ uống mỗi sữa trong nhiều ngày liên tụcc và
mắc phải chứng hypergraphia - một chứng ở não gây nên hiện tượng viết
nhanh viết hối.
1. Othniel Charles Marsh vs. Edward Drinker Cope: Cuộc chiến hóa thạch khủng long
Cuối những năm 1800 và những năm đầu
1900, có 2 người đàn ông đã dùng các chiến thuật mờ ám để cố gắng tranh
nhau tìm hóa thạch khủng long. Một là Othniel Charles Marsh, nhà cổ
sinh vật học tại viện bảo tàng Peabody thuộc trường đại học Yale; và
người thứ hai là Edward Drinker Cope làm việc tại Học viện khoa học tự
nhiên ở Philadelphia, Pennsylvania, ban đầu 2 người này khá thân thiết
nhưng sau đó trở nên thù ghét lẫn nhau.
Có lần Marsh hối lộ những người canh giữ hố hóa thạch để làm trệch hướng đi của bất cứ ai đi theo đường của ông ta. Vào một chuyến đi săn lùng hóa thạch khác, Marsh lại cử gián điệp đi theo cuộc hành trình của Cope. Thậm chí, còn có cả tin đồn rằng cả hai người họ đặt mìn vào hố xương hóa thạch của nhau để phá hoại những khám phá của người kia. Trong rất nhiều năm, hai người này thường xuyên châm chọc nhau qua các bài báo nghiên cứu và đổ lỗi cho nhau về những vấn đề tài chính qua báo chí. Tuy vậy, hai nhà nghiên cứu này lại có những đóng góp rất lớn lao trong lĩnh vực cổ sinh vật học. Cũng nhờ sự cố gắng của 2 người này mà một số loài khủng long mang tính biểu tượng đã được tìm thấy, ví dụ như: Stegosaurus, Triceratops, Diplodocus và Apatosaurus.
Có lần Marsh hối lộ những người canh giữ hố hóa thạch để làm trệch hướng đi của bất cứ ai đi theo đường của ông ta. Vào một chuyến đi săn lùng hóa thạch khác, Marsh lại cử gián điệp đi theo cuộc hành trình của Cope. Thậm chí, còn có cả tin đồn rằng cả hai người họ đặt mìn vào hố xương hóa thạch của nhau để phá hoại những khám phá của người kia. Trong rất nhiều năm, hai người này thường xuyên châm chọc nhau qua các bài báo nghiên cứu và đổ lỗi cho nhau về những vấn đề tài chính qua báo chí. Tuy vậy, hai nhà nghiên cứu này lại có những đóng góp rất lớn lao trong lĩnh vực cổ sinh vật học. Cũng nhờ sự cố gắng của 2 người này mà một số loài khủng long mang tính biểu tượng đã được tìm thấy, ví dụ như: Stegosaurus, Triceratops, Diplodocus và Apatosaurus.
Nguồn : sưu tầm internet.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét