Thứ Tư, 2 tháng 7, 2014

Tư duy sáng tạo

Những năm gần đây, người ta thường đòi hỏi nền giác dục phải trang bị cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo như là một phẩm chất quan trọng của con người hiện đại, đặc biệt là từ khi thế giới đã bắt đầu chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức ở nước ta, yêu cầu đó cũng đã được nhiều nhà giáo dục đề nghị đưa vào như là một nội dung quan trọng của một triết lý giáo dục cho nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Nhưng, sáng tạo là gì? tư duy sáng tạo là gì? dạy cho học sinh về tư duy sáng tác là dạy những nội dung gì? và quan trọng hơn nữa là dạy như thế nào để thật sự bồi dưỡng và nâng cao được năng lực tư duy sáng tạo của học sinh chúng ta?
Theo nghĩa thông thường, sáng tạo là một tiến trình phát kiến ra các ý tưởng và quan niệm mới, hay một kết hợp mới giữa các ý tưởng và quan niệm đã có. Hay đơn giản hơn, sáng tạo là một hành động làm nên những cái mới. Với cách hiểu đó thì cái quan trọng nhất đối với sáng tạo là phải có các ý tưởng, như lời của nhà toán học vĩ đại Poincaré: "Trong sáng tạo khoa học, ý tưởng chỉ là những ánh chớp, nhưng ánh chớp đó là tất cả", hay lời của một nhà khoa học vĩ đại khác, Linus Pauling, khi trả lời câu hỏi làm thế nào người ta sáng tạo ra được các lý thuyết khoa học: "Người ta phải cố nắm bắt được nhiều ý tưởng" và "con đường để có được một ý tưởng tốt là có thật nhiều ý tưởng". Từ xa xưa, người ta đã thường nói đến những ý tưởng sáng tạo trong các lĩnh vực thi ca, âm nhạc, hội hoạ, nghệ thuật. Các ý tưởng thường không đến với con người bằng suy luận, bằng tư duy lôgích, mà thường đến ở những giây phút xuất thần nào đó sau những tưởng tượng, những suy tư, những phỏng đoán, những đối chiếu, những so sánh bóng gió, v.v... tưởng chừng không liên quan gì đến điều mà mình đang bận tâm suy nghĩ.
Thời đại khoa học ra đời từ thế kỷ 17 đã gắn liền ngay từ đầu với chủ nghĩa cơ giới và chủ nghĩa duy lý. Phương pháp sáng tạo ra các định lý mới, các kiến thức mới trong các lý thuyết khoa học của thời đại đó đã gắn chặt với các lập luận lôgích, với các phép qui nạp và diễn dịch hình thức. Tôi không dám khẳng định 100% rằng chỉ bằng các lập luận lôgích và diễn dịch hình thức thì không thể làm nên những kiến thức mang tính sáng tạo, nhưng bằng vào một định lý Godel về tính đầy đủ của lôgích tân từ, không thể suy ra bất kỳ kiến thức gì thực sự mới từ các lý thuyết được xây dựng trong phạm vi của lôgích đó. Nhưng may thay, từ đầu thế kỷ 20 trở đi, khi khoa học mở rộng đối tượng của mình đến các hệ thống phức tạp trong tự nhiên và xã hội, thì các phương pháp tư duy cơ giới và duy lý không còn chiếm được vị trí độc tôn nữa, và các phương pháp tư duy sáng tạo cùng với quan điểm hệ thống trở thành phổ biến hơn, do đó để hiểu được cuộc sống và thế giới trong tinh thần hiện đại, việc rèn luyện một năng lực tư duy sáng tạo lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Việc rèn luyện năng lực tư duy sáng tạo hiện nay thường gắn liền với một phương pháp nhận thức mới là phương pháp giải quyết bài toán (problem solving method), với quan niệm mới xem rằng nhiệm vụ của khoa học không phải (và cũng không thể) là tìm kiếm chân lý, mà là tìm kiếm lời giải cho những bài toán mà con người liên tục gặp phải trong cuộc sống. Yếu tố cốt lõi của phương pháp giải quyết bài toán là tư duy sáng tạo, sáng tạo trong việc xác định bài toán, xác định các mục tiêu của bài toán, tạo sinh các ý tưởng bằng các thao tác trí tuệ như tưởng tượng, phỏng đoán, so sánh với các ẩn dụ, đưa ra các giả thuyết, phê phán và đánh giá các giả thuyết, rồi lựa chọn các lời giải, thực thi từng phần hoặc toàn bộ một lời giải đã chọn, đánh giá các lời giải khả thi, sửa đồi để hoàn thiện lời giải, vân vân. Từ nhiều năm gần đây, rèn luyện năng lực tư duy sáng tạo và sử dụng rộng rãi phương pháp giải quyết bài toán đã được phổ biến rộng rãi trong nhiều lĩnh vực hoạt động như quản lý, lập kế hoạch kinh tế, giáo dục và hoạt động khoa học ở nhiều nước. Trong lĩnh vực giáo dục, việc vận dụng phương pháp giải quyết bài toán trong tổ chức và quản lý giáo dục, trong việc cải thiện nội dung và phương pháp dạy học, thậm chí đến việc đổi mới chương trình học của một số bộ môn khoa học như toán, lý, hoá, sinh học cũng đã được thực hiện ở Phần Lan và một số nước khác. Trong chương trình đanh giá học sinh quốc tế (PISA) được tổ chức từ năm 2000, khả năng giải quyết bài toán đã được đưa vào như một nội dung của sự đánh giá.
Tôi nghĩ rằng năng lực tư duy sáng tạo và khả năng giải quyết bài toán cũng cần được đưa vào như một nội dung của cuộc cải cách giáo dục hiện nay ở nước ta. Trước hết, ta cần tìm hiểu và học tập kinh nghiệm của một số nước đi trước, rồi tiếp sau đó áp dụng phương pháp giải quyết bài toán cho hệ thống quản lý giáo dục của ta, đưa phương pháp giải quyết bài toán cùng nội dung tư duy sáng tạo phổ biến trong chương trình bồi dưỡng giáo viên và các sinh viên sư phạm; và sau những bước có tính chất chuẩn bị đó sẽ tính đến chuyện đưa nội dung tư duy sáng tạo và phương pháp giải quyết bài toán vào chương trình dạy học ở nhà trường.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét